Kinh Kim Cang
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA-LA-MẬT
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư
CƯU-MA-LA-THẬP dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Sa-môn THÍCH THIỆN HOA
dịch lại chữ Việt.
MỤC LỤC
A. Lời Tựa.
B. Phần Tự.
C. Phần Chánh Tôn
1. Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật hai
câu quan trọng.
2. Phật khen ông Tu-Bồ-Ðề và
hứa sẽ khai thị.
3. Phật dạy Bồ Tát hóa độ
chúng-sanh không nên chấp tướng.
4. Phật dạy Bồ Tát bố-thí
không nên chấp tướng.
5. Bố-thí không chấp tướng,
phước nhiều như mười phương hư-không.
A. Lời Tựa.
7. Không nên chấp : 'Thấy thân tướng
của Phật là thấy được Phật'.
8. Người tin được Kinh này là do đã
trồng căn lành từ nhiều kiếp.
9. Người thọ-trì Kinh này được
công-đức vô lượng.
10. Giáo pháp của Phật cũng như chiếc
thuyền đưa người qua bể khổ.
11. Phật phá cái chấp : 'Như-Lai có
thành Phật và thuyết pháp'.
12. Phật pháp không có sai khác, do trình
độ của chúng-sanh mà thấy có sai khác.
13. Phật nói công-đức trì Kinh nhiều
hơn bố-thí thất bảo.
14. Bốn quả Thinh-văn không nên chấp
mình có chứng quả.
15. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có đắc
pháp'.
16. Phật phá cái chấp 'Bồ Tát thật có
làm trang nghiêm cõi Phật'.
17. Phật dạy : 'Ðừng sanh vọng tâm trụ
chấp một nơi nào'.
18. Phật phá cái chấp 'Thân Phật cao lớn
như núi Tu-Di'.
19. Thọ trì Kinh này phước đức vô
lượng.
20. Công-đức của Kinh Kim-Cang Bát-Nhã.
21. Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật tên Kinh.
22. Phật phá cái chấp 'Kinh Kim-Cang
Bát-Nhã'.
23. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có thuyết
pháp'.
24. Phật phá cái chấp 'thật có vi-trần
và thế-giới'.
25. Phật phá cái chấp 'thấy 32 tướng
tốt của Phật là thấy Phật'.
26. Phật nói công-đức thọ-trì Kinh
Kim-Cang Bát-Nhã.
27. Ông Tu-Bồ-Ðề bùi ngùi cảm động
rơi nước mắt.
28. Người nghe Kinh này sanh lòng tin,
người ấy được công-đức thứ nhất.
29. Người có hạt giống Bát-Nhã mới tin
và hiểu được Kinh này.
30. Phật xác nhận lời nói của ông
Tu-Bồ-Ðề là phải.
31. Phật phá cái chấp : 'Bát-Nhã là đệ
nhất Ba-La-Mật'.
32. Phật phá cái chấp : 'Nhẫn nhục
Ba-La-Mật'.
33. Phật nói tiền thân của Ngài là một
vị tiên nhơn tu Nhẫn-nhục Ba-La-Mật.
34. Bồ Tát phát tâm Bồ-đề phải xa lìa
tất cả các vọng chấp.
35. Bồ Tát bố-thí hay làm các việc lợi
ích chúng-sanh đều không nên chấp tướng.
36. Như-Lai nói thật, không nói dối.
37. Chấp tướng bố-thí như vào nhà tối,
vô-tướng bố-thí như đi ban ngày.
38. Người thọ-trì Kinh này công-đức vô
lượng.
39. Công-đức Kinh này vô lượng vô biên
không thể nghĩ bàn.
40. Phật khuyên người thọ-trì đọc-tụng
Kinh này sẽ được đạo quả Bồ-đề.
41. Chỗ phụng thờ Kinh này cũng được
nhơn thiên và thánh thần cúng dường.
42. Người thọ-trì Kinh này mà bị người
khinh khi là do tội chướng đời trước của họ rất
nặng nề.
43. Người thọ-trì Kinh này công-đức
nhiều hơn Phật Thích-Ca cúng dường vô số chư Phật.
44. Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ
bàn, nên phước báo của người thọ-trì Kinh này cũng
không thể nghĩ bàn.
45. Ðây là lần thứ hai ông Tu-Bồ-Ðề
hỏi lại Phật hai câu quan trọng.
46. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có đắc
pháp với Phật Nhiên-Ðăng'.
47. Phật nói : 'Tất cả các pháp đều là
Phật pháp'.
48. Phật phá cái chấp 'Bồ Tát có độ
sanh'.
49. Phật phá cái chấp 'Bồ Tát có làm
trang nghiêm cõi Phật'.
50. Phật có đủ năm loại con mắt.
51. Phật thấy biết hết tâm niệm của
chúng-sanh trong hằng sa thế-giới.
52. Phật phá cái chấp 'phước đức
nhiều'.
53. Phật phá cái chấp 'thấy sắc thân và
tướng tốt của Phật là thấy Phật'.
54. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có thuyết
pháp'.
55. Phật phá cái chấp 'thật có
chúng-sanh'.
56. Phật phá cái chấp 'Như-Lai đặng
đạo quả vô thượng Bồ-đề'.
57. Pháp này bình đẳng không có thấp
cao.
58. Phật nói công-đức của người
thọ-trì Kinh này không thể nghĩ bàn.
59. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có độ
chúng-sanh'.
60. Thấy 32 tướng tốt của Phật chưa
phải là thấy được Phật.
61. Phật nói bài kệ phá cái chấp 'thấy
Phật bằng sắc tướng, nghe Phật bằng âm thanh'.
62. Phật phá cái chấp 'không' (tức là
chấp đoạn diệt).
63. Người ngộ 'tất cả các pháp không
thật' phước đức nhiều hơn người bố-thí vô số bảy
báu.
64. Phật phá cái chấp 'Như-Lai cũng có
đi, đứng, nằm, ngồi'.
65. Phật phá cái chấp 'thật có vi-trần
và thế-giới'.
66. Phật phá 'chấp Ngã'.
67. Phật phá 'chấp Pháp'.
68. Phật tán thán công-đức thọ-trì Kinh
Kim-Cang Bát-Nhã.
69. Phật nói bài kệ : quán các pháp
hữu-vi đều giả.
D. Phần Lưu Thông.
***********************************************
A. Lời Tựa.
Phật nói Kinh Ðại Bát-Nhã, tại 4 chỗ,
16 hội, chép đến 600 quyển (Phật Học Tự Ðiển trang 406) mới hết (nhị thập
nhị nên Bát-Nhã đàm). Tóm tắt bộ Kinh lớn trên là 'Kinh Kim-Cang Bát-Nhã
Ba-La-Mật', gọi tắt là 'Kinh Kim-Cang'. Kinh này rút lại trong một bài là
'Ma-Ha-Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða Tâm Kinh', gọi tắt là 'Tâm Kinh', gồm 260 chữ. Rốt
sau Phật dạy : 'Ta không nói một chữ'.
Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật , mở đầu,
mà cũng là trọng tâm của Kinh này, bằng hai câu hỏi của ông Tu-Bồ-Ðề :
'Vân hà ưng trụ ?'
'Vân hà hàng phục kỳ Tâm ?'
nghĩa là :
'Làm sao hàng phục vọng-tâm ?'
'Làm sao an trụ chơn-tâm ?'
Toàn bộ Kinh Kim-Cang Bát-Nhã, Phật chỉ
giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt lại chỉ trong một câu :
'Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm'.
Nghĩa là :
'Ðừng sanh vọng-tâm trụ chấp một nơi
nào'.
Ðây là câu 'Tinh ba' của bộ Kinh Kim-Cang
Bát-Nhã, mà ngày xưa đức Lục Tổ Huệ-Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ.
Phật dạy : 'Ðừng sanh vọng-tâm trụ chấp
một nơi nào', tức là dạy : 'Dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã, phá trừ rốt ráo
(Ba-La-Mật) các vô-minh vọng chấp : ngã, pháp, hay bốn tướng' (Ngã, nhơn,
chúng-sanh và thọ-giả).
Khi các vô-minh phiền-não vọng-chấp hết
rồi thì chơn-tâm thanh-tịnh hiện ra. Ðó là từ bờ mê-muội triền-phược của
chúng-sanh mà sang bờ giác-ngộ giải thoát của chư Phật, tức là 'đáo bỉ
ngạn' (đến bờ giác ngộ).
Phật dạy : 'Ðừng sanh vọng-tâm trụ chấp
một nơi nào'. Ðó là phương pháp tu-hành của Ðại-thừa đốn-giáo, để
'hàng-phục vọng-tâm' mà cũng là 'an-trụ chơn-tâm' vậy.
Vì phạm vi của bài tựa có hạn và theo
trình độ tầm thường của tôi, nên tôi chỉ trình bày sơ sài được một vài
đặc điểm của Kinh này thôi. Ngoài ra, không biết bao nhiêu nghĩa lý cao siêu
mầu nhiệm còn bí-ẩn trong Kinh này; dù tôi có suốt đời, cũng không thể
dùng trí phàm phu diễn tả hay lời nói phàm phu giải thích thấu đáo được ý
nghĩa của Thánh-hiền !
Xin quí vị hãy cố gắng đọc kỹ và tinh
tấn tu hành để hiểu được nghĩa lý cao siêu của Kinh này.
Tôi dịch Kinh này đến ba năm mới xong.
Bắt đầu từ ngày 24 tháng 2 năm Quí Mão (12-3-1963) đến ngày mùng 10 tháng 7
năm Ất Tỵ (6-8-1965). Vì Kinh đã khó, mà trong khi dịch lại gặp nhiều
duyên trở ngại : bị hai năm Pháp-nạn lận-đận lao đao quá lao tâm khổ trí;
đến khi Phật-giáo thống nhất, lại Phật sự quá tràn ngập, rồi tiếp đến hai
lần tôi vào dưỡng đường, nên công việc phải chậm trể.
Hôm nay, nhờ Tam-Bảo gia hộ, tôi đã
dịch và lược-giải xong Kinh Kim-Cang và Bát-Nhã Tâm-Kinh, là bộ Kinh thuộc
khóa XII trong toàn bộ Phật Học Phổ Thông, do tôi chủ trương biên soạn. Thế
là tôi đã đóng hoàn thành cây thang giáo lý 12 nấc, mà tôi đã hoài bảo
trên 25 năm nay. ( xem 'một sự nghiệp của đời tôi' )
Ðược mãn nguyện, tôi rất vui mừng và
thành tâm đốt nén hương lòng, cầu nguyện :
Mặt trời Phật sáng thêm
Xe chánh pháp chạy hoài
Trên đền đáp bốn ơn
Dưới cứu-độ ba loài
Thế-giới được hòa bình
Nhơn dân đều an lạc
Ðệ-tử và chúng-sanh
Ðều tròn thành đạo Phật.
Muà Hạ năm Ất-Tỵ - 1965
Sa-môn THÍCH THIỆN HOA
B. Phần Tự.
Phần mở đầu KINH BÁT NHÃ.
Tôi nghe như vầy : Một hôm, tại nước
Xá-Vệ, Phật và 1250 vị Ðại Tỳ Kheo, đều ở Tinh-xá Kỳ-Hoàn, trong vườn của
ông Thái-tử Kỳ-Ðà và ông Trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc.
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng
tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá-Vệ, theo thứ lớp khất thực.
Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng
về Tinh-xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và
rửa chân, rồi trải tọa-cụ, ngồi yên tịnh.
C. Phần Chánh Tôn.
1. Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật
hai câu quan trọng.
Khi đó, ở trong đại chúng, ông Trưởng
lão Tu-Bồ-Ðề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối bên hữu quỳ xuống, chắp
tay cung kính và bạch Phật rằng :
'Hy hữu thay ! Ðức Thế-Tôn ! Ngài
thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị Bồ Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo các
vị Bồ Tát.
Bạch Thế-Tôn ! Nếu có người phát tâm
Bồ-đề muốn cầu quả Phật, thì :
Làm sao hàng phục vọng tâm ?
Và làm sao an trụ chơn tâm ?'
2. Phật khen ông Tu-Bồ-Ðề
và hứa sẽ khai thị.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Lời ông vừa
hỏi, thật là quí lắm ! Vậy ông hãy chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ
dạy'.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có
người phát tâm Bồ-đề, muốn cầu quả Phật, thì phải như lời ta dạy đây mà
'hàng phục vọng tâm' và 'an trụ chơn tâm'.
3. Phật dạy Bồ Tát độ
sanh không nên chấp tướng.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Các ông phải y
như lời ta dạy đây, mà hàng phục vọng tâm của mình.
Tu-Bồ-Ðề ! Các vị Ðại Bồ Tát phải
độ tất cả các loại chúng sanh (như loài sanh trứng, loài sanh con, loài sanh
chỗ ẩm-thấp, loài hóa sanh, loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng,
loài không tưởng, loài chẳng phải có tưởng, loài chẳng phải không tưởng
v.v...) đều được nhập Niết bàn. Bồ Tát tuy độ vô lượng vô số chúng sanh
như vậy, nhưng không thấy có một chúng-sanh nào được độ. Tại sao vậy ?
Nếu Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng sanh được độ, tức là Bồ Tát
còn chấp bốn tướng (ngã tướng, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ
giả) thì không phải là Bồ Tát'.
4. Phật dạy Bồ Tát bố thí
không nên chấp tướng.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát khi tu
pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp
tướng sáu trần là : sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Tại sao vậy ? Nếu
Bồ Tát bố-thí mà không chấp tướng bố-thí, thì phước đức nhiều lắm,
không thể nghĩ bàn'.
5. Bố thí không chấp
tướng phước nhiều như mười phương hư không.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Hư-không ở
phương đông có thể nghĩ bàn được không ?' Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn
! Không thể nghĩ bàn được'.
Phật hỏi tiếp : 'Hư-không phương tây,
phương nam, phương bắc, phương trên, phương dưới và bốn gốc, có thể nghĩ
bàn được không ? Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không thể nghĩ bàn
được'.
'Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát bố-thí,
không trụ chấp các tướng, đặng phước đức cũng như mười phương
hư-không, nghĩa là nhiều lắm không thể nghĩ bàn'.
6. Phật dạy an-trụ Chơn-Tâm.
Tóm lại, Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! các vị
Bồ Tát phải y như lời ta dạy đó mà an trụ Chơn-Tâm'.
7. Không nên chấp : 'Thấy thân tướng
của Phật là thấy được Phật.'
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ông có thể cho
thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như-Lai chăng ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể cho thấy cái thân tướng của Ngài đó là thấy được Như-Lai. Tại sao
vậy ? Vì Như-Lai nói : 'Cái thân tướng này, không phải thật là thân tướng
của Như-Lai'.
Phật dạy tiếp :'Tu-Bồ-Ðề ! Phàm cái gì
có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư
vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như-Lai (thật tướng các
pháp).
8. Người tin được kinh này, do đã
trồng căn lành từ nhiều kiếp.
Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật : 'Bạch Thế-Tôn
! Chúng-sanh nghe đến kinh này, chẳng biết có tin được không ?'
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ông chớ nên lo
như vậy. Không những hiện-tại mà cả vị-lai đều có người nghe và tin được
kinh này. Sau 500 năm, khi Như-Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới)
hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, thì biết
người này đẵ trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn năm đời Phật,
mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay.
9. Người thọ trì kinh này, công đức vô
lượng.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai
thấy rõ ràng và biết chắc chắn : Nếu có chúng-sanh nào nghe đến kinh này,
sanh tâm tin thọ, cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì
chúng-sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên.
Tại sao vậy ? Vì chúng-sanh này không
còn chấp tướng ngã tướng nhơn, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, tướng
phải pháp và tướng không phải pháp'.
10. Giáo Pháp của Phật cũng như chiếc
thuyền đưa người qua bể khổ.
Phật dạy : 'Nếu các ông còn chấp các
tướng, hoặc chấp 'tướng chánh-pháp' hay chấp 'tướng phi chánh pháp' thì
cũng đều bị dính mắc nơi bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh, và thọ-giả.
Bởi thế nên không được chấp 'tướng chánh pháp' hay chấp 'tướng phi chánh
pháp'.
Cũng vì lẽ đó, nên Như-Lai thường dạy
: 'Các thầy Tỳ-Kheo phải biết : giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa
người qua sông; các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp.
'Chánh pháp' còn không nên trụ chấp
huống chi là 'phi pháp'.
11. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có thành
Phật và thuyết pháp'.
Phật hỏi ông Tu-Bồ-Ðề : 'Như-Lai có
thành Phật không ? và Như-Lai có thuyết pháp không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai
không thành Phật và Như-Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy ? Vì pháp
của Như-Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm,
không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp.
Như thế thì làm sao, có cái gì quyết
định là 'thành Phật', và có cái gì quyết định là 'nói pháp'.
12. Phật Pháp không có sai khác, do trình
độ của chúng-sanh mà thấy có sai khác.
Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật : 'Phật Pháp
đã như thế, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau ?'. Phật
dạy : 'Vì trình độ của chúng-sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền
sai khác, chứ không phải Phật-Pháp (vô-vi) có sai khác'.
13. Phật nói công-đức trì kinh này
nhiều hơn bố-thí thất bảo.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
đựng đầy bảy báu trong đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem
bố thí (tài thí), thì phước đức nhiều không ?'. Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch
Thế-Tôn ! nhiều lắm'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa
quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức (pháp thí) của
người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy ? Vì tất cả Phật và Pháp
đều từ kinh này mà sanh ra'.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Gọi là
'Phật, Pháp', thực ra cũng không phải 'Phật, Pháp', chỉ tạm gọi là 'Phật,
Pháp''.
14. Bốn quả Thinh-Văn, không nên chấp
mình có chứng quả.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề' ! Nếu vị
Tu-Ðà-Hoàn tự nghĩ rằng : 'Tôi đã đặng quả Tu-Ðà-Hoàn'; nghĩ như thế có
được không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể được. Tại sao vậy ? Vị Tu-Ðà-Hoàn, phải không còn thấy mình có chứng
quả Tu-Ðà-Hoàn, thế mới thật là chứng quả Tu-Ðà-Hoàn'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có vị
Tư-Ðà-Hàm tự nghĩ rằng : 'Tôi đã đặng quả Tư-Ðà-Hàm'; nghĩ như thế có
được không ?.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể được. Tại sao vậy ? Vị Tư-Ðà-Hàm, phải không còn thấy mình có chứng
quả Tư-Ðà-Hàm, thế mới thật là chứng quả Tư-Ðà-Hàm'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có vị
A-Na-Hàm tự nghĩ rằng : 'Tôi đã đặng quả A-Na-Hàm'; nghĩ như thế có đặng
không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể được. Tại sao vậy ? Vị A-Na-Hàm, phải không còn thấy mình có chứng quả
A-Na-Hàm, thế mới thực là chứng quả A-Na-Hàm'.
Phật hỏi : Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có vị
A-La-Hán tự nghĩ rằng : 'Tôi đã đặng quả A-La-Hán'; nghĩ như vậy có đặng
không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể được. Tại sao vậy ? Vị A-La-Hán, phải không còn thấy mình có chứng quả
A-La-Hán, thế mới thật là chứng quả A-La-Hán. Nếu còn thấy mình chứng quả
A-La-Hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng : ngã, nhơn,
chúng-sanh và thọ-giả, thì không phải thật chứng A-La-Hán.
Bạch Thế-Tôn ! Cũng như con đây, vì con
không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như-Lai chứng nhận :
'Tu-Bồ-Ðề đã đặng pháp Tam-muội vô tránh; Tu-Bồ-Ðề là người ưa tu hạnh
tịch-tịnh (A-Lan-Na); Tu-Bồ-Ðề là vị A-La-Hán ly dục thứ nhứt. Trong chúng,
Tu-Bồ-Ðề là hơn hết'.
Bạch Thế-Tôn ! Nếu con nghĩ (chấp) rằng
: 'Con đã đặng quả A-La-Hán, con là vị A-La-Hán ly dục thứ nhứt v.v... thì
Ðức Như-Lai không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy'.
15. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có đắc
Pháp'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Về quá-khứ đối
với trước Phật Nhiên-Ðăng, ta có 'đắc Pháp' không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Ðức
Như-Lai thật không có 'đắc Pháp' gì cả'.
16. Phật phá chấp 'Bồ Tát thật có làm
trang nghiêm cõi Phật'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát có làm
trang-nghiêm cõi Phật không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Bồ Tát
không làm trang-nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy ? Bồ Tát làm trang-nghiêm cõi
Phật, mà không thấy (chấp) mình có trang-nghiêm cõi Phật, như thế mới thật
là trang-nghiêm cõi Phật'.
17. Phật dạy 'Ðừng sanh vọng-tâm trụ
chấp vào một nơi nào'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Các vị Ðại Bồ
Tát phải giữ tâm thanh-tịnh, chớ nên sanh vọng-tâm trụ chấp nơi sắc trần,
thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần. Tóm lại, Bồ Tát
đừng khởi vọng-tâm trụ chấp một nơi nào cả' (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm).
18. Phật phá cái chấp 'Thân Phật cao lớn
như núi Tu-Di'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Báo thân của
Phật như núi Tu-Di. Vậy Báo Thân của Phật có cao lớn không ?'
Ông Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn !
lớn lắm. Nhưng, Phật nói : 'Không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn'.
19. Thọ trì kinh này phước đức vô
lượng.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như trong sông
Hằng, có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, lại dụ cho một sông Hằng.
Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! nhiều
lắm. Nếu chỉ tính những sông Hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi
là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng'.
Phật hỏi tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có
chúng-sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Ðại thế giới (một
nghìn triệu thế-giới nhỏ) để đem bố-thí; số đại-thế-giới này cũng nhiều
như số cát trong vô số sông Hằng, thì chúng-sanh đó phước đức nhiều không
?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! nhiều
lắm'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ta nay thành thật
bảo ông : Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng kinh này, hoặc trọn
quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức
của người này nhiều hơn người trước'.
20. Công đức của kinh Kim-Cang Bát-Nhã.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! những chỗ được
giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu
kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng
dường và đều kính trọng như chỗ chùa tháp của Phật'.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu chỗ
nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ tử tôn quí của
Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ
thành tựu trí huệ Kim-Cang Bát-Nhã'.
21. Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật về tên Kinh.
Lúc bấy giờ, ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật :
'Bạch Thế-Tôn ! Kinh này tên gì ? Và tại sao chúng con phải phụng trì'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Kinh này tên là
'KIM-CANG BÁT-NHÃ BA-LA -MẬT'; vì thế nên các ông phải phụng trì'.
22. Phật phá cái chấp về kinh 'KIM-CANG
BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
Bát-Nhã Ba-La-Mật, tức không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật, thế mới gọi là Bát-Nhã
Ba-La-Mật'.
23. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có thuyết
pháp'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có
thuyết pháp không ?'. Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai không có
thuyết pháp'.
24. Phật phá cái chấp : 'thật có vi-trần
và thế-giới'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Những vi-trần
chứa trong đại thế giới (1 nghìn triệu thế-giới nhỏ) có nhiều không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm'.
Phật dạy 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói các vi
trần, không phải thật vi trần, chỉ tạm gọi là vi trần. Như-Lai nói thế giới,
không phải thật là thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới'.
25. Phật phá cái chấp : 'thấy 32 tướng
tốt của Phật là thấy Phật'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ông có thể cho
thấy 32 tướng tốt của Như-Lai là thấy được Như-Lai không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể được. Tại sao vậy ? Vì Ðức Như-Lai nói 32 tướng tốt, không phải thật
32 tướng tốt, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt'.
26. Phật nói công-đức thọ-trì Kinh
Kim-Cang Bát-Nhã.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố-thí, thì người đó
phước đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy
kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì
phước đức người này nhiều hơn người trước'.
27. Ông Tu-Bồ-Ðề bùi ngùi cảm động
rơi nước mắt.
Sau khi thấy Phật nhiều lần ân-cần, nhắc
nhở khuyên dạy, ông Tu-Bồ-Ðề nghe hiểu được nghĩa lý thâm-thúy của kinh
này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động bùi ngùi và sa nước mắt !...
Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật rằng : 'Bạch
Thế-Tôn ! Con tuy đặng huệ-nhãn đã lâu, nhưng chưa từng được nghe Phật
nói kinh điển, nghĩa lý cao siêu, huyền diệu, quí hóa như thế này !'
28. Người nghe Kinh này sanh lòng tin
người ấy đặng công đức thứ nhất.
Ông Tu-Bồ-Ðề thưa Phật : 'Bạch Thế-Tôn
! Nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được thật-tướng
(tánh Bát-Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành-tựu công-đức hy hữu thứ nhứt.
Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai nói 'thật
tướng', tức không phải 'thật tướng', chỉ tạm gọi là 'thật tướng'.
29. Người có hạt giống Bát-Nhã mới tin
và hiểu được Kinh này.
Ông Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn !
Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được tin được và thọ-trì, chẳng lấy
làm khó. Khi đức Như-Lai nhập diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe Kinh
này, mà được hiểu ngộ, tin theo và thọ-trì, thì người đó mới là hy-hữu !
Tại sao vậy ! Vì người này không còn
chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả.
Bạch Thế-Tôn ! Nói bốn tướng, không
phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng-sanh và
thọ-giả. Tại sao vậy ? Vì phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là
chư Phật'.
30. Phật xác nhận lời nói của ông
Tu-Bồ-Ðề là phải.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ðúng như vậy.
Nếu có người nghe Kinh này mà không nghi ngờ hay kinh sợ, thì người này rất
là hy-hữu'.
31. Phật phá cái chấp : 'Bát-Nhã là đệ
nhứt Ba-La-Mật'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-La-Mật, không phải Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-La-Mật,
thế mới thật Bát-Nhã đệ nhứt Ba-La-Mật'.
32. Phật phá cái chấp 'Nhẫn Nhục
Ba-La-Mật'
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
người Nhẫn-nhục Ba-La-Mật (rốt-ráo) mà không thấy mình Nhẫn-nhục Ba-La-Mật,
như thế mới thật là Nhẫn-nhục Ba-La-Mật'.
33. Phật nói tiền thân Ngài là một vị
tiên-nhơn tu hạnh nhẫn-nhục Ba-La-Mật.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Về quá khứ, ta
làm vị Tiên-nhơn tu hạnh nhẫn-nhục đến 500 đời. Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo
thân-thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; vì ta không còn chấp bốn tướng
: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả'.
34. Bồ Tát phát tâm Bồ-đề phải xa lìa
tất cả các vọng chấp.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát phát tâm
Bồ-đề, phải xa lìa tất cả các chấp tướng. Bồ Tát không nên sanh tâm
trụ-chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và
pháp-trần v.v...
Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sanh vọng-tâm
trụ-chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tâm còn trụ-chấp một nơi nào, thì
không phải thật an trụ chơn-tâm.
35. Phật dạy Bồ Tát bố thí hay làm các
việc lợi ích chúng-sanh đều không nên chấp tướng.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát khi bố
thí hay làm các việc lợi ích cho tất cả chúng-sanh, không nên sanh tâm
trụ-chấp các tướng (mình bố-thí, người thọ thí, vật bố-thí).
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói các tướng không
phải thật các tướng (các pháp) chỉ giả gọi các tướng. Như-Lai nói
chúng-sanh, không phải thật chúng-sanh, chỉ giả gọi chúng-sanh'.
36. Như-Lai nói thật, không nói dối.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
thật, nói chân-chánh, không nói dối, không nói sai khác. Như-Lai có đắc
pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư'.
37. Trụ tướng bố-thí như vào nhà tối,
vô tướng bố-thí như đi ban ngày.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu Bồ Tát
bố-thí mà tâm còn trụ-chấp nơi pháp bố-thí, thì như người vào nhà tối,
không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ Tát bố-thí mà tâm không trụ-chấp nơi
pháp bố-thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt
nhựt chiếu soi, được thấy tất cả mọi vật'.
38. Người thọ trì kinh này công-đức vô
lượng.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai dùng
trí-huệ Phật, thấy rõ ràng và biết chắc-chắn : đời sau, nếu có người phát
tâm thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu công-đức vô lượng
vô biên'.
39. Công-đức Kinh này vô lượng vô biên
không thể nghĩ bàn.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
nào, một ngày ba lần : Sớm mai, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng
để bố-thí; Trưa, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí;
Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí. Bố-thí
như vậy cho đến vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, phước đức của người
này vô lượng vô biên.
Nếu có người nghe Kinh này, tin hiểu
không nghi ngờ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin
mà thôi, còn được phước như vậy, huống chi là thọ-trì đọc-tụng, hoặc
phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại, công-đức của Kinh này vô
lượng vô biên không thể nghĩ bàn'.
40. Phật khuyên người thọ-trì đọc-tụng
Kinh này sẽ đặng đạo quả Bồ-đề.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai vì những
người phát tâm Ðại-thừa và phát tâm Tói-thượng-thừa mà giảng dạy kinh
này.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai thấy rõ-ràng và
biết chắc-chắn : Nếu có người thọ-trì đọc-tụng hoặc giảng dạy kinh này,
thì người này sẽ đặng công-đức vô-lượng vô biên không thể suy nghĩ và
luận bàn. Người này sẽ đặng đạo quả Bồ-Ðề của Như-Lai.
Tu-Bồ-Ðề ! Người ưa pháp Tiểu-Thừa,
chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nên đối với kinh này,
họ không thể tin hiểu hoặc đọc tụng, hay giảng dạy cho người'.
41. Chỗ phụng thờ Kinh này cũng được
nhơn thiên và thánh thần cúng dường.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Chỗ nào phụng
thờ Kinh này, thì chỗ ấy như có chùa tháp của Phật; tất cả trời, người,
thánh thần đều cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc đi nhiễu'.
42.Người thọ trì kinh này mà bị người
khinh khi là do tội chướng đời trước của họ rất nặng nề
Phật dạy ! 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu người thọ
trì đọc tụng Kinh này, mà bị người khinh khi, thì người này do tội chướng
đời trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo;
nhưng nay chỉ bị người khinh khi, những tội chướng đời trước được tiêu
diệt và họ sẽ mau đặng đạo quả Bồ-Ðề'.
43. Người thọ trì Kinh này công-đức
nhiều hơn Phật Thích-Ca cúng dường vô số chư Phật.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ta nhớ trong quá
khứ, về vô lượng vô số kiếp, trước thời Phật Nhiên-Ðăng, ta cúng dường
và phụng thờ tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng về sau này,
nếu có người thọ-trì đọc tụng Kinh này, thì công-đức của người này so
với công-đức của ta cúng dường phụng thờ vô số chư Phật trước kia,
công-đức của ta không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một
phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay thí dụ cũng không thể
tính toán hay thí dụ được công-đức của người thọ trì Kinh này'.
44. Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ bàn
nên phước báo của người thọ trì Kinh này cũng không thể nghĩ bàn.
Phật dạy : 'Nếu ta nói hết công-đức
của người thọ-trì đọc-tụng Kinh này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn,
hoặc nghi ngờ không tin.
Tóm lại, Kinh này nghĩa lý vô biên,
không thể suy nghĩ và luận bàn, nên phước báo của người thọ trì Kinh này
cũng không thể suy nghĩ và luận bàn'.
45. Ðây là lần thứ hai, Ông Tu-Bồ-Ðề
hỏi lại Phật hai câu quan trọng.
Khi ấy, Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật : 'Bạch
Thế-Tôn ! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và
làm sao an trụ chơn tâm ?'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
phát tâm Bồ-đề, thì phải dụng tâm như vầy : Ta hóa độ tất cả chúng-sanh,
nhưng không thấy có mình độ và chúng-sanh được độ. Tại sao vậy ? Nếu Bồ
Tát còn thấy mình độ và chúng-sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã,
tướng nhơn, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, tức nhiên không phải là Bồ
Tát.
Tu-Bồ-Ðề ! Thật không có một pháp gì
gọi là phát tâm Bồ-đề'.
46. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có đắc
pháp với Phật Nhiên-Ðăng'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Về quá khứ,
Như-Lai có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Ðăng không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai
không có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Ðăng'.
Phật dạy : 'Ðúng như vậy, Như-Lai không
có đắc pháp gì cả. Nếu Như-Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên-Ðăng không
thọ-ký cho ta rằng : Về sau, ông sẽ trở thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni'.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Có người
nói : 'Như-Lai đặng quả Bồ-đề'. Thật ra, Như-Lai là bản thể như như của
các pháp, nên Như-Lai không đặng pháp gì cả.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai đặng đạo Bồ-Ðề,
không phải hư, không phải thật'.
47. Phật nói : 'Tất cả các pháp đều là
Phật Pháp'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói :
'Tất cả các pháp đều là Phật Pháp'. Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói các pháp, thật
ra không phải các pháp, chỉ giả gọi 'các pháp'; cũng như thân Phật cao lớn,
Như-Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả gọi 'thân Phật cao lớn'.
48. Phật phá cái chấp 'Bồ Tát có độ
sanh'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu Bồ Tát còn
chấp mình hóa độ vô số chúng-sanh thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ?
Vì thật ra không có một pháp gì gọi là Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói :
'Tất cả các pháp không ngã, không nhơn, không chúng-sanh và không thọ-giả'.
49. Phật phá cái chấp 'Bồ Tát có làm
trang nghiêm cõi Phật'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu Bồ Tát chấp
rằng : 'Ta là trang nghiêm cõi Phật', thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ?
Như-Lai nói : 'Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không chấp mình có làm
trang nghiêm cõi Phật, mới thật là trang nghiêm cõi Phật.
Tóm lại, nếu Bồ Tát không còn chấp ngã
chấp pháp, Như-Lai mới gọi là 'thật Bồ Tát'.
50. Phật có đủ năm loại con mắt.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có
Nhục-Nhãn không ? Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Nhục-Nhãn'.
'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có Thiên-Nhãn không
?'
'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Thiên-Nhãn'.
'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có Huệ-Nhãn không
?'
'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Huệ-Nhãn'.
'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có Pháp-Nhãn không
?'
'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Pháp-Nhãn.'
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai có Phật-Nhãn không
?'
'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Phật-Nhãn'.
51. Phật thấy biết hết tâm niệm của các
chúng-sanh, trong hằng sa thế-giới.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Cát ở trong sông
Hằng, Như-Lai có gọi là cát không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai
cũng gọi là cát'.
Phật hỏi : 'Như một sông Hằng có vô số
cát, rồi lấy mỗi một hột cát, để thí dụ một sông Hằng, thì có vô số
sông Hằng. Trong vô số sông Hằng, mỗi một sông Hằng lại có vô số cát nữa,
rồi đem vô số hạt cát trong vô số sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một
hạt cát là một thế giới của Phật (Ðại thế-giới). Như thế, thế-giới của
Phật có nhiều không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! nhiều
lắm'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Tất cả
chúng-sanh ở trong vô số thế giới như vậy có bao nhiêu tâm niệm, Như-Lai
đều thấy biết tất cả'.
Phật dạy tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là 'tâm'. Tại sao vậy ? - Vì tâm
quá-khứ tìm không được, tâm hiện-tại tìm không được, tâm vị-lai cũng
tìm không được'.
52. Phật phá cái chấp 'phước-đức
nhiều'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
dùng 7 món báu, đựng đầy trong một đại thế-giới (một nghìn triệu thế-giới
nhỏ) đem bố thí, người này được phước nhiều không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Nhiều
lắm'.
Phật dạy : 'Nếu chấp phước đức này
thật có, thì Như-Lai nói phước đức này không nhiều. Không chấp phước đức
nhiều, Như-Lai mới nói là 'đặng nhiều phước đức'.
53. Phật phá cái chấp 'thấy sắc thân và
tướng tốt của Phật là thấy Phật'.
Phật hỏi : 'Tu-Bồ-Ðề ! Ông có thể cho
thấy sắc thân của ta đây là thấy được Phật không?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể cho thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai
nói sắc thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là sắc thân'.
Phật hỏi tiếp : 'Tu-Bồ-Ðề ! ông có thể
cho thấy các tướng tốt (32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp) của ta đây là thấy
được Phật không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Không
thể cho thấy các tướng tốt của Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy ? Vì
Như-Lai nói các tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ giả gọi là
tướng tốt'.
54. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có thuyết
pháp'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! ông chớ nên
nghĩ rằng : 'Như-Lai có thuyết pháp'. Tại sao vậy ? Nếu người nào không hiểu
lời của Phật dạy, lại nói rằng : 'Như-Lai có thuyết pháp', thì người ấy
khinh báng Phật.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói 'thuyết pháp,
tức là không có pháp gì có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp'.
55. Phật phá cái chấp 'thật có chúng
sanh'.
Khi đó, ông Tu-Bồ-Ðề thưa Phật : 'Bạch
Thế-Tôn ! Ðời sau, nếu có chúng-sanh nào nghe đến Kinh Bát-Nhã, không biết
họ có thể tin được không ?'. Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Chúng kia, không phải
chúng-sanh, cũng không phải phi chúng-sanh. Tại sao vậy ? Như-Lai nói
chúng-sanh, thật không phải chúng-sanh, chỉ giả gọi là 'chúng-sanh''.
56. Phật phá cái chấp 'Như-Lai đặng
đạo quả vô thượng Bồ-Ðề'.
Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật : 'Bạch Thế-Tôn
! Như-Lai có chứng đặng đạo quả Vô-thượng Bồ-Ðề không ?'. Phật dạy :
'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai không có một tí gì gọi là đặng đạo quả Vô-thượng
Bồ-Ðề'.
57. Pháp này bình đẳng không có cao
thấp.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Pháp này bình
đẳng không có cao thấp, không ngã, không nhơn, không chúng-sanh và không
thọ-giả, tạm gọi là đạo vô-thượng Bồ-đề.
Tu-Bồ-Ðề ! Do tu tất cả các pháp lành
mà đặng đạo vô-thượng Bồ-đề, Như-Lai nói pháp lành, không phải pháp
lành, mới gọi là pháp lành'.
58. Phật nói công-đức của người thọ
trì Kinh này không thể nghĩ bàn.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
đem 7 món báu, chất cao bằng các núi Tu-Di trong đại thế-giới (một nghìn
triệu thế-giới nhỏ) để bố-thí, thì người này phước đức nhiều lắm.
Nhưng, nếu có người thọ-trì đọc tụng,
hoặc giảng dạy Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật này, hoặc trọn quyển, hay nửa
quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức hơn
người trước nhiều lắm. Phước đức của người trước không bằng một phần
trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức của người này, cho đến
dùng toán số không thể tính được, hay dùng thí-dụ cũng không thể thí-dụ
được phước đức của người này'.
59. Phật phá cái chấp 'Như-Lai có độ
chúng-sanh'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! ông chớ lầm
tưởng : Như-Lai nghĩ rằng : 'Ta độ chúng-sanh'. Tại sao vậy ? Nếu Như-Lai có
nghĩ : 'Ta độ chúng-sanh', thì Như-Lai còn chấp bốn tướng : ngã, nhơn,
chúng-sanh, và thọ-giả, tức nhiên không phải Như-Lai. Bởi thế nên, Như-Lai
thật không có độ chúng-sanh nào cả.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói 'ta', thật ra
không có 'ta'; nhưng chúng phàm phu lại chấp có ta. Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói
phàm phu, không phải phàm phu, chỉ giả gọi là phàm phu'.
60. Thấy 32 tướng tốt của Phật chưa
phải là thấy được Phật.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! ông có thể cho
thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy được Phật không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Ðúng
như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật'. Phật dạy : 'Ông
hiểu lầm rồi ! Nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy được
Phật, thì vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy
vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng là Phật hay sao ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Con
hiểu ý Phật rồi, không thể cho thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được
Phật'.
61. Phật nói bài kệ phá cái chấp 'thấy
Phật bằng sắc tướng, nghe Phật bằng âm thanh'.
Khi đó, đức Thế-Tôn nói tiếp bài kệ
rằng :
Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như-Lai.
62. Phật phá chấp 'Không' (tức là chấp
đoạn diệt)
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! ông chớ nên
nghĩ rằng : Như-Lai không thừa nhận thân tướng tốt đẹp này là thân Phật'.
Tại sao vậy ? Nếu người phát tâm Bồ-Ðề mà nghĩ như vậy, thì mắc vào cái
chấp 'đoạn diệt'. Tu-Bồ-Ðề ! Người phát tâm Bồ-đề, đối với các pháp,
không nên chấp 'đoạn diệt' (chấp không).
63. Người ngộ 'Tất cả các Pháp không
thật', phước đức nhiều hơn người bố thí vô số bảy báu.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có vị Bồ
Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong hằng sa thế-giới, đem bố-thí ; và có
vị Bồ-tát ngộ 'tất cả pháp không thật' (nhứt thế pháp vô ngã) và chứng
đặng 'pháp-không' (pháp nhẫn) thì công-đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều
hơn vị Bồ Tát trước. Tại sao vậy ? Vì vị Bồ Tát sau này không lãnh thọ
phước đức'.
Tu-Bồ-Ðề bạch Phật : 'Bạch Thế-Tôn !
Tại sao Bồ Tát không lãnh thọ phước đức'. Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Bồ Tát
làm các việc phước đức, nhưng không thâm trước, nên nói Bồ Tát không
lãnh thọ phước đức'.
64. Phật phá cái chấp 'Như-Lai cũng có
đi, đứng, nằm, ngồi'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
chấp : Như-Lai cũng tới, lui, nằm, ngồi v.v.. thì người đó không hiểu nghĩa
Như-Lai.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nghĩa là không từ
đâu đến và cũng không đi về đâu, nên gọi là Như-Lai'.
65. Phật phá cái chấp 'thật có vi-trần
và thế-giới'.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
chẻ nhỏ Ðại-thiên Thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) thành vi-trần.
Vậy số vi-trần này nhiều không ?'
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Nhiều
lắm !'
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói các
vi-trần, không phải thật vi-trần, chỉ giả gọi là vi-trần. Nếu các vi-trần
thật có, thì Như-Lai không gọi là vi-trần (chỉ gọi cái tướng, do chẻ nhỏ
thế-giới mà thành).
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói thế-giới, không
phải thật thế-giới, chỉ giả gọi là thế-giới. Nếu thế-giới thật có, thì
Như-Lai không gọi là thế-giới, mả chỉ gọi là cái tướng tổng-hợp của nhiều
vi-trần.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói cái tướng tổng
hợp (thế-giới) không phải tướng tổng-hợp, chỉ giả gọi là tướng tổng-hợp.
Tu-Bồ-Ðề ! Chúng phàm phu vì không biết
đó là một cái tướng tổng-hợp của nhiều vi-trần, nên chấp là thật có
thế-giới, rồi sanh tâm tham-lam luyến-ái v.v..'.
66. Phật phá chấp ngã.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
nói : 'Phật cũng nói ngã-tướng, nhơn-tướng, chúng-sanh tướng và thỏ-giả
tướng'. Vậy, người này có hiểu được nghĩa của Như-Lai nói không ?'.
Tu-Bồ-Ðề thưa : 'Bạch Thế-Tôn ! Người
này không hiểu được nghĩa của Như-Lai nói. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai nói
bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nhưng không phải thật có bốn
tướng, chỉ giả gọi bốn tướng ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả mà thôi'.
67. Phật phá chấp pháp.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Người phát tâm
Bồ-đề chẳng nên chấp các pháp thật có, mà phải thấy các pháp là giả,
biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả và tin các pháp là giả.
Tu-Bồ-Ðề ! Như-Lai nói 'các pháp',
không thật có 'các pháp', chỉ giả gọi là 'các pháp'.
68. Phật tán thán công-đức thọ trì Kinh
Kim-Cang Bát-Nhã.
Phật dạy : 'Tu-Bồ-Ðề ! Nếu có người
dùng 7 món báu, đựng đầy vô lượng vô số thế-giới đem bố-thí. Và, nếu
có người phát tâm Bồ-đề thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy Kinh này, trọn
quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức của
người sau này nhiều hơn người trước.
Tại sao người thọ trì đọc tụng và
giảng dạy Kinh này, phước đức nhiều hơn người trước ? Vì người này chẳng
chấp thủ các tướng (ngã, pháp) nhập được thể-tánh Kim-Cang, như như bất
động vậy'.
69. Phật nói bài kệ : Quán các pháp
hữu-vi đều hư giả.
(Dịch âm nguyên văn) :
Nhứt thế hữu-vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Dịch nghĩa :
Phải quán như thế này :
Tất cả pháp hữu-vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương, như điển chớp.
PHẦN LƯU-THÔNG
Phần truyền-bá lưu-thông.
Khi Phật nói Kinh này rồi, ông Trưởng
Lão Tu-Bồ-Ðề, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện-nam, tín-nữ, trời, người và
thần A-Tu-La, đều tin thọ và hoan-hỷ vâng làm.
*******************************************